Nguyễn Quang Sáng quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Ông bắt đầu viết văn từ sau kháng chiến chống Pháp. Ông chuyên viết truyện ngắn, kịch, tiểu thuyết và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ. Trong đó phải kể đến truyện ngắn “CLN” được viết vào năm 1966, lúc ông đang hoạt động ở Nam Bộ và được trích trong tập chuyện cùng tên. Truyện kể về một câu chuyện cảm động về tình cha con của anh Sáu và bé Thu trong hoàn cảnh éo le, khóc liệt mà chiến tranh mang lại. Cùng với anh Sáu, Bé Thu cũng là nhân vật chính trong tác phẩm với những nét tính cách vô cùng đáng yêu, cá tính, là biểu tượng cho tình cảm cha con sâu nặng, thiêng liêng.
Truyện kể về hai cha con anh Sáu và bé Thu, vì chiến tranh mà cha của bé Thu phải đi kháng chiến lúc cô mới tròn 1 tuổi, mãi đến năm 8 tuổi cha cô mới đuợc về nhà 3 ngày. Xuồng chưa cập bờ mà anh đã nhảy xổng lên bờ dang hai tay chạy về phía con cất tiếng gọi.tưởng chừng bé Thu sẽ lao vào ôm cha mình nhưng không nghe anh gọi bé Thu bỗng giật mình, tròn mắt nhìn ngơ ngác, lạ lùng, rồi hoảng sợ, mặt tái đi sau đó cô chạy vào nhà cầu cứu má. Sự hồn nhiên ngây thơ hoà một chút sợ hãi của bé Thu khi mới gặp cha.
Những ngày sau đó khi anh Sáu muốn gần gũi và vỗ về thì bé Thu xô ra, xem anh như người lạ. Khi chuẩn bị ăn cơm, chị sáu kêu bé Thu mời ba vào ăn cơm nhưng bé thu chỉ toàn nói trống “Thì má cứ kêu đi, vô ăn cơm, cơm chín rồi, con kêu rồi mà người ta không nghe” bất chấp sự trách móc của mẹ. Ngày hôm sau vì chị Sáu bận nên nhò bé Thu coi nồi cơm và dặn có gì thì nhờ cha giúp, nghe xong bé Thu chỉ im lặm, khi nghe nồi cơm sôi cô mở nắp ra lấy đũa sơ qua, vì nồi cơm to quá nên bé Thu không nhắc xuống chắt nước được nên nhìn dáo dác một lúc rồi nhìn lên anh Sáu rồi kêu lên “Cơm chín rồi chắt nước dùm cái” cô lại nói trống, thấy anh Sáu cứ ngồi im cô tự xoay sở để không phải gọi anh là cha. Khi ăn cơm anh Sáu gắp một cái trứng cá cho bé Thu cô liền dùng đũa xới để hất cái trứng ra làm đổ cả chén cơm, thấy vậy giận quá anh Sáu liền đánh vào mông cô một cái, cô lập tức gấp cái trứng bỏ lại vào chén rồi chạy ra bến mở lòi tói kêu rổn rảng rồi sang nhà ngoại. Bé Thu phản ứng rất quyết liệt, thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh nhưng cũng rất cá tính.
Sau khi cô bỏ sang nhà bà ngoại, chị Sáu đã qua đón cô nhưng cô nhất quyết không về. Sau khi biết chuyện bà ngoại hỏi bé Thu vì sao lại không nhận cha cô liền trả lời vì vết sẹo trên mặt của cha nó, nghe tới đây bà ngoại đã hiểu vì sao bé Thu không chịu nhận ba, bà liền giải thích vì cha cô đi đánh Tây bị Tây bắn bị thương, khi nghe xong cô bé đã rất buồn áy náy và trằn trọc. Khi nhận ra mọi việc thì cha nó đã đến lúc phải đi rồi vì vậy nê sáng hôm sau cô liền nhờ Ngoại đưa về nhà. Về đến nhà anh Sáu thấy cô không còn bướng bỉnh hay nhăn nhó cau có nữa, vẻ mặt sầm lại buồn rầu. Đến lúc phải chia tay, anh Sáu sắp đi nhưng ánh mắt vẫn nhìn lại bé Thu thấy cô chỉ đứng núp, anh quay người đi thấy vậy bé Thu liền chạy xô tới ba và kêu thét lên gọi “ Ba..a..a..ba!”, tiếng gọi kìm nén suốt tám năm chất chứa bao tình yêu thương thắm thiết, cô ôm chặt lấy cổ ba và nói trong tiếng khóc để giữ không cho ba đi, khi biết không thể giữ ba ở lại côn liền khóc nức nỡ và hôn anh Sáu, cô hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết sẹo của anh. Tình yêu thương mãnh liệt của bé Thu dành cho ba đã khiến tất cả mọi người xung quanh đều xúc động.
Nhìn chung truyện đã thành công trong việc miêu tả tâm lí, xây dựng tính cách nhân vật và sáng tạo tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí. Ngoài ra nhân vật bé Thu trong truyện đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc bởi một tính cách đặc biệt không thể nhầm lẫn. Nhân vật này đã góp phần tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc cho tác phẩm. Vì vây, cùng với tác phẩm, bé Thu đã giành đươc vị trí riêng trong lòng độc giả yêu truyện ngắn Việt Nam.