32. Ông hai Tây

1 0 0
                                    

Ở Hà Nội ngày trước nhiều người biết ông hai Tây làm xiếc. Tam Lang, tác giả phóng sự Tôi kéo xe, đã có viết một bài về hai Tây.

Có người bảo tên cúng cơm, ông ấy cũng thật là hai Tây. Người biết gốc gác, kể ông ấy vốn là Tây lai. Ông cũng có vẻ lai thật. Nước da trắng bệch, mũi lõ, tóc quăn queo, lòng mắt nâu mà lại lờ đờ... Còn có người biết cả chuyện ông Hai đã đến tòa thị chính xin quan đốc lý cứu đói. Nhưng quan đốc lý đã cho nhà thương thử máu, nhà thương bảo máu ông ấy không phải máu Tây. Thế là tòa đốc lý không cho đồng xu nào, hai Tây lại sống lang thang.

Tôi cũng được trông thấy ông hai Tây. Nhưng đến khi tôi thấy ông hai Tây làm xiếc thì cảnh và người ông những năm ấy đã tàn tạ lắm.

Ở phố Hàng Mã, chỗ ngã tư Hàng Lược, Hàng Đồng... Bên kia vỉa hè có quán nước chè tươi. Suốt ngày, đông người ra ngồi uống nước. Thợ đánh bóng đồ đồng, thợ làm trang kim vàng mã. Người cởi trần, khăn mặt vắt vai, xúm xít. Cái xe bò chở gỗ xích cả cây từ phố Mới bờ sông lên cũng ghé lại. Bác xe kéo chốc lại hạ càng vào làm bát nước. Chiếc xe cao su đỗ chổng đuôi cạnh bờ hè.

Mỗi buổi sáng, cứ đến quãng bóng cây nhội lấn ra giữa đường, lại thấy ông hai Tây lù lù từ phía đằng Cổng Chéo chùa Tây Đen đi đến. Trẻ con rầm rầm chạy ra, không biết chúng nó reo hay gọi:

- Hai Tây! Chúng mày ơi, hai Tây!

Ông hai Tây đứng lại trên hè trước hàng nước. Tôi ngẩng mặt nhìn lên thấy dưới cằm ông lủa tủa trổ một vệt râu trắng. Tôi không dám bắt chước chúng nó gọi xếch mé: hai Tây, hai Tây. Bởi ông hai Tây cũng già phảng phất bằng ông ngoại tôi ở nhà.

Đầu tôi chưa chắc đã tới ngang bụng ông hai Tây. Ông cao lênh khênh mà gầy vêu cả mẩu xương cổ tay. Hai bên má bệu ra, sần sùi như hai mảnh vỏ chai úp. Lỗ mũi ông to huếch, bằng cái lỗ đáo, đem "cả cái" một đồng xu vào lọt được. Thoạt đầu tôi lấy làm lạ. Tại sao có người lỗ mũi to đến thế.

Ông hai Tây mặc bộ "quần áo Tây", khuỷu tay, đầu gối rách bươm, đã xuống màu cháo lòng, cũng như da dẻ ông nhăn nheo mốc xám.

Ông hai Tây vác trên vai một chiếc ghế băng còn cả thanh gỗ ngang dưới chân, như ông vừa khiêng trộm cái ghế ở lớp học nào ra.

Bọn trẻ lại reo:

- Hai Tây làm xiếc! Hai Tây làm xiếc, anh em ơi!

Ông hai Tây hạ cái ghế xuống. Lưng ông cũng khòng khòng rũ theo. Ông uể oải dựng đứng đầu ghế lên, gõ cộc cộc xuống mặt hè. Tiếng làm hiệu cũng không đánh động được chút ít chú ý nào của những người ngồi hàng nước. Chẳng ai quay ra. Ông lừ lừ nhìn quanh. Rồi ông thò tay vào túi áo. Một việc lần lượt như đã làm quen, trẻ con đứng xem cũng thuộc.

Tiếng trẻ kêu to:

- Hai Tây đóng đanh lỗ mũi! Hai Tây đóng đanh lỗ mũi!

Như là chúng nó ra lệnh cho ông. Ông hai Tây lấy trong túi ra hai cái đinh đã rỉ đen, bóng nhờ như phết mỡ. Không phải đinh ba phân, mười phân. Đinh này dài một gang tay, to bằng chiếc đinh đỉa đóng ván thuyền. Tay kia ông cầm cái búa con con.

Ông hai Tây ngửa khuôn mặt nặng nề, béo bủng.

Ông kề đầu đinh vào mũi. Tay ông giơ búa. Cóc... cóc... Cái búa gõ vào tán đinh... Chiếc đinh dài tụt lủm vào lỗ mũi. Trẻ con đâm sợ, không reo được nữa. Ở hàng nước có tiếng nói với ra:

- Thôi ông ơi, ghê bỏ mẹ! Ông hai Tây vẫn thản nhiên đóng cái đinh nữa vào lỗ mũi bên này. Trong mũi, hai tán đinh thò một mẩu ra như cuống quả quýt. Không nói, nhưng ai cũng biết đấy là ông xin tiền thưởng.

Chiếc đinh lung lay muốn tụt. Ông hai Tây giơ búa đập cốc một cái. Chiếc đinh lại thụt vào.

Vòm mũi ông hai Tây đã đỏ ửng như quả nhót.

Một người giãy nảy, hét:

- Rút ra đi thôi! Cái đinh lại toan tụt. Cóc, cóc... vào.

- Rút! Rút ra! Muốn xin tiền thì xin hẳn hoi, chứ làm cái trò khỉ ấy, không ai thí cho đâu.

Ông hai Tây thong thả rút hai chiếc đinh trong lỗ mũi ra. Nhưng cũng không thấy đồng chinh nào bỏ vào bàn tay ông vẫn ngửa trước mặt. Ông hai Tây lại lẳng lặng làm sang trò mới. Ông hai Tây lùi lùi nhấc chiếc ghế băng, giơ lên trên đầu.

Ông thở phè phè lấy hơi. Rồi ông thưỡn hàm dưới nhe răng cắn cái ghế dựng đứng. Ông hổn hển bước lên, bước xuống. Chẳng biết cái miếng xiếc của ông cốt làm điệu thế hay nặng quá, ông run run sắp ngã. Một người đứng dậy, giơ tay nắm chiếc ghế lại:

- Thôi thôi, đổ ghế vỡ đầu người ta. Mấy cái răng sắp rơi nốt ra đây kia, định ăn vạ à?

Có một đồng chinh vứt xuống bờ hè. Ông hai Tây hạ ghế xuống, cúi xuống nhặt đồng tiền rồi không nói không rằng như từ lúc mới đến, ông lủi thủi vác ghế đi về phía Hàng Đồng.

Tiếng trẻ con reo như đuổi theo:

- Xiếc hai Tây! Xiếc hai Tây!

Hôm sau, ông hai Tây lại đến chỗ hàng nước. Cũng vào quãng nắng đổ bóng cây nhội ra giữa đường. Những người ngồi hàng nước không phải người hôm trước. Nhưng chẳng hôm nào thấy ai xem hết được cả hai trò xiếc đóng đinh lỗ mũi và cắn ghế dựng đứng.

- Thôi, thôi... - Một chinh đây. Rút đinh ra, rút ra. Ghê bỏ mẹ!

Mộthôm nào, không thấy ông hai Tây vác ghế đến chỗ hàng nước ngã năm ấy nữa. Hômnào, cũng không ai để ý.

Chuyện Cũ Hà Nội (Tập 1) - Tô HoàiNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ