Tôi không biết chúng tôi còn bao nhiêu thời gian nữa cho tới khi Rosaleen và Arthur quay về cùng mẹ tôi, hay liệu họ có quay về cùng bà hay không, nhưng tôi không còn bận tâm về việc bị bắt quả tang nữa. Tôi đã phát chán với những bí mật của họ, phát mệt vì việc phải nhón chân rón rén đi vòng quanh, cố tìm hiểu những gì đang bị che đậy khi không ai để mắt tới. Weseley, hoàn toàn ủng hộ trước hành động tiếp theo của tôi, dẫn tôi đến ngôi nhà một tầng nằm bên kia đường. Cả hai chúng tôi đã tìm kiếm những câu trả lời, và chưa bao giờ trong đời mình tôi gặp một người như Weseley, luôn sẵn sàng giúp tôi nhiều đến thế. Tôi nghĩ tới xơ Ignatius và tim tôi thắt lại. Tôi đã bỏ rơi bà, tôi cũng cần phải gặp bà nữa. Tôi nhớ một trong những lần gặp đầu tiên giữa hai chúng tôi, xơ đã nắm lấy tay tôi và nói bà sẽ không bao giờ nói dối tôi như thế nào. Bà sẽ luôn nói cho tôi sự thật. Xơ biết điều gì đó. Bây giờ nghĩ lại, tôi chợt hiểu thực ra bà đã nói với tôi ngay lần tôi gặp bà là bà biết chuyện gì đó, bà đã rất rõ ràng yêu cầu tôi hỏi bà, và tôi chưa bao giờ nhận ra điều đó cho tớ tận lúc này.
Weseley dẫn tôi đi xuôi xuống lối đi bên hông nhà, hai đầu gối tôi run lẩy bẩy trong lúc bước đi, và tôi chờ đợi chúng quỵ xuống bất cứ lúc nào, làm tôi đổ ập xuống đất như một ngôi nhà dựng bằng các lá bài. Buổi sáng đang tối sầm lại và gió đang nổi lên mỗi lúc một mạnh thêm. Bây giờ mới tầm giữa trưa, vậy mà bầu trời đã đầy mây, những đám mây to xám xịt đã tập hợp lại, cứ như thể đôi mắt của bầu trời đã bị che phủ dưới đôi lông mày rậm rịt, vầng trán của nó cau lại đầy quan ngại trong lúc theo dõi tôi.
"Tiếng động gì vậy?" Weseley hỏi khi chúng tôi đi đến cuối con đường.
Chúng tôi dừng lại lắng nghe. Đó là tiếng lanh canh.
"Thủy tinh," tôi thì thầm. "Chúng va đập vào nhau trong gió."
Một âm thanh khiến người ta thoáng bất an. Không giống tiếng lanh canh của chuông gió, nghe như tiếng thủy tinh vỡ, khi những viên thủy tinh nhỏ, tròn trịa hay có góc cạnh, va vào nhau trong gió. Bị nhân lên hàng trăm lần, chúng tạo thành thứ âm thanh thật quái lạ.
"Tôi sẽ tới đó kiểm tra xem sao," Weseley nói khi chúng tôi bước vào vườn rau. "Cô sẽ ổn thôi, Tamara. Chỉ cần nói với bà ấy là xong. Sau đó bà ấy có thể nói với cô nhiều hơn."
Tôi bồn chồn nhìn theo anh ta bước đi qua bãi cỏ, qua trước mặt nhà xưởng và biến mất vào bãi thủy tinh.
Tôi quay sang phía sau ngôi nhà và nhìn qua các ô cửa sổ. Phòng bếp vắng tanh. Tôi khẽ gõ lên cửa sau và đợi, không có ai trả lời. Bằng một bàn tay run rẩy, và tôi thầm mắng mình vì đã xúc động như thế, tôi nắm lấy tay cầm cửa và kéo xuống. Cánh cửa mở ra. Tôi kéo cánh cửa hé ra một chút và ngó vào trong. Có một lối đi hẹp quẹo thẳng qua góc phải. Có ba cánh cửa phía trong lối đi, tất cả đều đóng. Một cửa bên phải , hai cửa bên trái. Cánh cửa thứ nhất dẫn vào bếp, và tôi đã biết trước chẳng có ai trong đó. Tôi bước vào trong, cố gắng giữ cánh cửa để không cảm thấy mình không bị sập bẫy và để không cảm thấy mình bị cắt đứt với bên ngoài, nhưng gió thổi mạnh đến mức làm cánh cửa đóng sập lại. Tôi giật bắn mình và một lần nữa nhủ thầm mình thật ngốc nghếch làm sao. Một bà lão, còn là người tặng tôi một món quà, khó lòng có thể làm hại tôi. Tôi gõ nhẹ lên cánh cửa bên phải. Không có tiếng trả lời, vậy là tôi nhẹ nhàng vặn tay nắm và từ tốn mở cửa. Đó là phòng ngủ, hiển nhiên là của một bà lão. Trong phòng sực mùi ẩm mốc, bột talc và thuốc khử trùng TCP. Trong phòng có một cái giường gỗ cũ kỹ sẫm màu có chăn lông vịt vải hoa, cạnh giường để một đôi dép và một tấm thảm trải giường màu xanh cổ vịt từ những năm tám mươi đã trải qua không ít lần giũ và hút bụi. Có một cái tủ đứng trơ trọi một mình, có lẽ là nơi chưa đựng tất cả của nả trần tục của chủ nhân. Một bàn trang điểm nhỏ có tấm gương đã ố mờ kê áp vào bức tường có gắn cửa, một cây lược chải tóc, mấy lọ thuốc, chuỗi tràng hạt cầu nguyện và quyển Kinh Thánh được để ngăn nắp trên mặt bàn. Đối diện với giường là khung cửa sổ nhìn về vườn sau. Ngoài ra trong phòng chẳng có thứ gì khác, chẳng có ai.