tiếp

11 0 0
                                    

Giờ tôi mới bắt đầu chú ý tới những lời hai người đàn ông kia nói với nhau. Chú lớn tuổi hơn có một nốt ruồi dưới cằm, mặc nhiên trên đó mọc ra những cọng râu trông như dòng thác. Tôi biết chú lớn hơn vì cách xưng hô thôi. Chú còn lại có đôi mắt xếch, môi dưới khá dày chống đỡ cho cánh mũi cứ phập phồng.
“...tao nói, bữa nào lội mương mà không nghe mùi là bữa đó khỏe”, chú lớn tuổi vừa nói, vừa vuốt mấy cọng râu, “còn gặp như bữa hổm thì thôi thôi...”
“Tại anh hên thôi anh Tám ơi”, chú Nhỏ cự, “bên phía tui tuần này tính ra thôi là ba cái!”
“Trên bờ hay dưới mương?”
“Trên bờ hai, dưới mương một! Mà ngặt, cái dưới mương hết kéo lên được. Phải lấy chài lôi lên.”
“ Bị “nó” níu lại đó, lần đó tao cũng bị, 2 cái dưới gốc tràm, “nó” lôi vô tới đó luôn mày, tao gỡ không ra tới khi cúng nó mới nhả ra đó”
“ Bởi vậy, thà là cắt mấy cái trên cây xuống nhẹ hơn dữ dằn”
“Ơ trời. Mô phật, mô phật!”
Nói tới đó, hai người rót rượu đầy ly rồi cùng nhau cạn. Xong rồi mỗi người lại nhìn một hướng, vẻ mặt đăm chiêu thấy rõ.
.
Tôi thấy vậy cũng không để ý tới họ nữa. Đưa mắt nhìn một vòng, tự nhiên thấy tít ngoài sâu trong khu rừng, đối diện với chòi nước có thứ gì đó đang đong đưa. Nhìn kỹ thì thấy đó là một chiếc võng, dây nhợ thòng xuống cả đất, chắc đã bị thủng. Xung quanh nó là các cây rừng, mật độ cũng khá dày, cỏ không cao lắm nhưng nhìn âm u. Chiếc võng này được mắc giữa hai thân cây nhỏ, dưới đất, lá khô chất đống giống như đã lâu lắm không ai nằm đó để phải gạt cỏ ra. Tôi nghĩ chắc là có gió mạnh ngoài kia lắm, vì cái võng bị thổi nghiêng sang một bên, sau đó dường như gió lặng nên nó lại rơi xuống, đong đưa qua lại. Rồi lại có gió, chiếc võng bị thổi, rồi gió lại tắt. Có nhịp điệu hẳn hoi, nhìn cũng khá giống với việc có ai đó ngồi lên, lấy trớn, rồi thả ra cho võng lắc lư vậy, mà cũng giống thật vì phần võng bành ra chứ không xếp lại như khi không ai nằm.
.
“Chú ơi”, tôi nghe chất giọng đục ngầu của bà lão nên quay lại, “chú từ đâu tới?”
“Con ở Sài Gòn ngoại ơi!”
Bà cụ bị lãng tai, không nghe rõ tôi nói gì nên nhếch cả mồm lên, làm vẻ mặt nghiêm trọng. Tôi thấy vậy liền hét câu đó thêm lần nữa.
“À, người “xì phố” đi du lịch phải chưa. Lâu lâu cũng có dăm ba cô chú đi lạc vô như chú vậy đó!”
“Con không có đi lạc ngoại ơi”, tôi thét lên, “mà ngoại cho con hỏi, cái võng ngoài kia của ai nằm mà rách hết trơn vậy ngoại?”
Bà cụ thấy tôi chỉ tay cũng cố gắng hết sức nhướn phần thịt trên chân mày lên nhìn theo, nhưng chắc vô vọng rồi. Sau đó thì ba ngoài cả người về phía đó luôn.
“Võng nào? Có kiểm lâm người ta ngủ trên tháp canh mới mắc võng, chứ rừng rú làm gì có võng?”
Chắc bà không thấy nên tôi cũng ậm ừ lái qua chuyện khác.
“Ngoại ơi, ngoại biết mấy miếng vải đỏ với mấy sợi dây thừng trong rừng không?”, tôi nghĩ bà sống ở đây lâu rồi nên chuyện này chắc kèo là bà sẽ biết.
“Người ta chết trong rừng đó chú,” bà thả câu nói nhẹ tơn, như thả cái lông gà lông vịt, “dây thừng là người ta treo cổ phải cắt thì mới đưa xuống được. Gỡ không ra. Còn miếng vải đỏ là của mấy ông thầy chùa cột, để siêu thoát. Với lại người nhà cũng biết chỗ mà lại đốt nhang. Thỉnh thoảng cũng có xác chết trôi...”
.
Đột nhiên, bà dừng lại giữa chừng như sực nhớ hay sợ hãi điều gì đó, quay ngoắt cổ về sau làm những thớ thịt già nua cong lại, sắp lớp. Tôi nhìn theo hướng đó, trong nhà, trên một cái bàn gỗ đã cũ, có một cái lư hương, nhang vừa cháy hết, phía sau là một bức ảnh thờ, đáng lý ra là vậy, nhưng trong khung ảnh thì không có gì cả. Không ảnh, không hình, cũng không có cả chữ tàu chữ tây. Chỉ đơn giản là một khung ảnh thờ màu đen, bên trong lót một tấm carton, bên ngoài cũng có tấm kính. Khung ảnh đã mòn hết mép, lấm tấm những chỗ như bị nhang châm vào. Bà lão đứng dậy, lật đật chạy vào thấp một nén nhang mới như sợ cái chuyện bàn thờ lạnh tanh thì có cái gì đó ghê gớm lắm. Tôi thấy vậy liền để lại hai mười nghìn rồi đứng lên đi về.
.
Trên đường ra, gió thổi cây rừng kêu xào xạc như phụ họa cho tiếng lòng tôi cũng đang gào thét dữ dội; một cảm giác gì đó làm tôi cứ bồn chồn không yên. Tôi nghĩ về cuộc hội thoại của hai ông chú, những lời nói của bà lão và hàng loạt những chuyện khác tôi đã trải qua trong hành trình về Bảy Núi lần này. Chẳng lẽ tôi muốn được tin và được sợ?
.
Tôi dựng xe, cảm thấy luyến tiếc. Khoảng chưa tới mười tiếng đồng hồ nữa thôi là tôi lại trở về với hồ sơ, với bộn bề công việc, với xe cộ, đèn đường và con người. Tôi ngồi khụy gối, bất giác bốc một nắm đất rồi thả cho gió mặc sức cuốn đi, ngước lên nhìn, trên cái cây trước mặt tôi là miếng vải đỏ đang phất phơ như gửi lời tạm biệt.
.
“Meo.”
.
Sau lưng tôi, bên kia đường, một con mèo đen đang ngồi chễm chệ. Nó nhìn tôi, kêu thêm vài tiếng nữa. Chợt đôi mắt nó như trợn lên, hớt hải chạy về phía tôi, lông trên lưng nó dựng ngược. Tôi tưởng nó chạy sang chỗ tôi cho tôi nựng nịu nên cũng có chút mong chờ. Nhưng tôi đã lầm, ánh mắt nó không phải trợn ngược với tôi mà với cái gì đó sau lưng tôi. Có lẽ vậy. Nó làm tôi thoáng giật mình quay ra sau thì không có gì cả. Đường vẫn vắng ngắt. Nó chạy ngang tôi cái “vụt”, lúc tôi quay lại thì chỉ thấy cây cỏ động đậy chứ không thấy bóng dáng nó nữa.
.
Mà kể cũng lạ, tôi có cảm giác con mèo này như chỉ có cái đầu và hai chân trước. Như con người thiếu đi phần thân giữa. Hai cái chân uyển chuyển, còn đầu thì to quá khổ. Chắc nó chạy nhanh quá tôi nhìn không rõ. Xe chạy ra đường lớn, ngoái đầu nhìn lại con đường vừa thơ mộng vừa ma mị thêm một lần nữa, những sợi dây thừng đong đưa, mảnh vải phất phơ, nước ngập đen ngòm cả khu rừng bên kia, bất giác tôi nghĩ: “Lỡ chân té xuống mà mắc kẹt trong cái gốc tràm đó chắc trời mà biết!

SUỴT NGHE KỂ TRUYỆN MA NÈNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ