Mary chợt tỉnh giấc. Gió từ hướng Tây thổi mạnh và nắng yếu ớt chiếu vào phòng. Tiếng cửa gỗ lay động đã đánh thức cô gái. Nhìn màu trời nàng biết chắc đã hơn tám giờ rồi. Nhìn xuống sân, Mary thấy cửa chuồng ngựa mở rộng và có dấu giầy mới in lên bùn. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm khi biết chú Joss đã ra ngoài. Mary vội vàng mở rương lấy cái váy dầy, cái tạp dề màu và đôi giầy gỗ thô mà nàng vẫn thường dùng ở trại. 10 phút kế đó, nàng xuống bếp, rửa mặt phía sau.
Dì Patience bước ra khỏi vòng rào dành nuôi gà, túm trong tạp dề mấy quả trứng. Dì đưa ra cho Mary thấy:
- Dì tin là cháu sẽ thích khi có trứng để ăn sáng nay. Chiều qua, dì thấy cháu mệt quá không ăn được gì cả. Dì để dành cho cháu lọ mứt.
Nom dì tươi tỉnh, mặc dù đôi mắt thâm quầng chứng tỏ đêm qua thao thức lo âu. Mary nghĩ rằng chỉ khi nào có mặt chú Joss dì mình mới sợ sệt như đứa trẻ phạm lỗi. Khi ông ta đi vắng, dì dễ vui vì một điều nhỏ nhặt như luộc cho cháu cái trứng gà! Hai người cùng tránh nhắc lại việc đêm qua. Không nhắc đến cả tên Joss nữa, lão đi đâu, làm gì nàng không cần biết, chỉ thấy vui là đủ.
Mary biết dì không muốn bàn đến việc hiện tại. Bà có vẻ...sợ cháu hỏi. Mary chỉ kể những khó khăn mấy năm sau cùng ở Helford, về cái chết của mẹ. Mary thấy dì có vẻ cố sức mà không thể chú ý đến lời nàng. Những năm dài lo sợ bên cạnh chồng làm bà mất nhiều khả năng cần thiết; có một sự gì khủng khiếp đến nỗi bà trở thành ngờ ngẫn gần như trì độn?
Suốt sáng đó, Mary phụ dì trong công việc hằng ngày và dạo xem gần hết Lữ quán.
Ngôi nhà đầy bóng tối với những hành lang dài và những căn phòng kỳ lạ. Có một lối riêng biệt vào quầy rượu ở một bên nhà. Căn phòng tuy trống rỗng nhưng không khí bên trong nặng nề, chứng tỏ có một sự nhộn nhịp vừa qua, không lâu lắm: mùi rượu nồng hăng, hơi người ấm và bẩn trên những dãy ghế đen đủi. Trong toàn lữ quán, có lẽ chỉ phòng nầy là sống động nhất.
Các phòng khác hình như bị bỏ quên, không ai lui tới. Phòng khách ở cạnh cổng vào cũng trống vắng như đã nhiều tháng không ai đặt chân vào và sưởi ấm ở lò. Những phòng trên lầu càng tệ hơn, một phòng dùng làm kho. Nhiều thùng chất sát vách, trên phủ mấy tấm da ngựa rách nát vì chuột gặm. Phòng đối diện, khoai tây và củ cải chất đống trên cái giường hư nát.
Mary đoán rằng phòng nàng trước kia cũng như các phòng nầy. Giường tủ và bàn chải tóc chắc do dì nàng mới trang hoàng cho cháu. Mary tránh đến gần phòng dì và Joss ở hành lang bên kia.
Phía dưới giàn phòng nầy, có một hành lang song song với hành lang trên và ở đầu đối diện với gian bếp có một phòng khóa kín. Mary vòng ra sân, nhìn vào cửa sổ nhưng cửa sổ được che kín bằng một tấm ván đóng chặt vào đó nên nàng không thấy được gì.
Ngôi nhà và các dãy phụ chiếm bốn cạnh sân. Giữa là một bồn cỏ và hồ nước.
Trước mặt, con đường trải dài vô tận, quanh đó là đồng hoang, một màu nâu sẫm và ướt át vì mưa, Mary đến tận đường cái, quanh tầm mắt nàng chỉ có đồi đen đủi và ao tù. Lữ quán là ngôi nhà duy nhất t rong vùng, dù là một ngôi nhà xám chứa đầy bí ẩn và không có gì tỏ ra hiếu khách.
Phía tây là những ngọn núi đá sừng sựng, vài ngọn có cỏ mọc lưa thưa dưới ánh nắng yếu ớt của mùa đông cỏ vẫn úa vàng. Nhiều ngọn núi khác chỉ thấy chơm chởm đá.
Chốc chốc, ánh nắng bị một đám mây che khuất, tạo thành một bóng đen dài trên đồng hoang. Màu sắc cũng thay đổi: khi thì đồi núi tím thẫm như dấy mực, khi thì tia nắng xuyên qua mây làm ngọn đồi trở thành vàng, nâu... Nhiều ngọn khác chìm trong bóng tối.
Khung cảnh thay đổi liền liền: phía đông ánh nắng ban trưa rực rỡ và đồng hoang xem yên tĩnh như một sa mạc cát trong khi phía tây những ngọn đồi bị chế ngự bởi mùa đông buốt, thỉnh thoảng tối sầm do một đám mây... Không khí lạnh và thoang thoảng hương thơm tinh khiết của miền núi. Thật là một sự mới lạ với Mary, vì nàng chỉ quen với khung cảnh êm ả của Helford, với những rào dậu và những cây to che chở cho nên dù vào đông gió cũng không dữ dội. Mũi đất cao che chở cho những người sống dưới bóng nó, chỉ mình dòng sông xanh biếc cuồn cuộn, bọt tung trắng xóa, nom có khi hơi dữ tợn mà thôi.
Tuy nhiên, giữa hoang vu, man dã, đáng ghét, Mary cảm thấy trong không khí có sự kiêu hùng kỳ lạ, cuốn hút lấy nàng làm nàng như bị thách đố và không muốn lùi bước. Thốt nhiên, nàng cảm thấy thích thú, ưa mạo hiểm, thấy hăng hái trong lòng. Má nóng bừng, mắt ngời sáng, tóc tung bay trong gió lộng, Mary thu hồi được nghị lực, niềm tin một cách bất ngờ.
Mary thở mạnh, hít không khí ngọt ngào mát mẻ tinh khiết vào hai buồng phổi. Nàng đến bên hồ, mở vòi và ngâm hai tay xuống nước. Nước lạnh rợi, trong veo. Nàng vốc một ngụm đưa lên uống. Tuy nước ở đây khác xa nước nàng đã uống trong bếp, một vị chan chát quyện trong lưỡi, nàng thấy thích thú và đã khát ngay.
Mary như được bồi bổ cả thể xác lẫn tinh thần.
Nàng cảm thấy đói và nghĩ đến dì.
Mary ăn món thịt trừu hầm củ cải một cách ngon lành. Lần thứ nhất, sau 24 giờ chịu đựng Mary cảm thấy phấn khởi, bình tĩnh, can đảm. Mary gợi chuyện:
- Dì ơi, tại sao chú Joss lại làm chủ Lữ quán Giao Mai?
Sự tấn công bất ngờ và thẳng thắn của cô cháu làm dì lúng túng. Bà cắn môi, đỏ mặt giây lâu mới trả lời, ấp úng:
- Thì...con thấy đó: nơi nầy thuận tiện quá, quốc lộ chính từ Bắc đến Nam. Xe qua lại hai bận trong tuần. Họ đi từ Bodmin, Truno đến Launceston. Cũng như con đi hôm qua vậy mà... Họ du lịch, làm ăn, buôn bán...
- Đúng thế, nhưng tại sao họ không ghé Lữ quán Giao Mai?
- Họ dừng lại chớ! Họ đến quầy rượu để giải khát. Chúng ta có đông khách hàng...
- Sao dì có thể nói thế được? Phòng khách bỏ trống, phòng ngủ dùng làm kho, chứa đầy chuột...kia mà! Cháu thấy tận mắt, cháu đã nghỉ ở lữ quán nhỏ hơn đây. Trong làng cháu cũng có một cái. Mẹ cháu bạn với bà chủ, cháu có đến một lần. Trên lầu có hai phòng nhưng được trang hoàng tử tế cho khách.
Dì Patience im lặng giây lâu, lại cắn môi:
- Chú Joss không thích ai ở lại. Chú ghét ồn ào, vả lại ở một nơi vắng vẻ như chỗ nầy có thể nguy hiểm cho mình...
- Cháu không tin. Ghét ồn ào mà lại mở Lữ quán? Sợ nguy hiểm mà lại chọn một nơi vắng vẻ để làm ăn? Mà mở lữ quán để làm gì nếu không cho khách lương thiện ghé qua đêm? Dì nên thành thật với cháu: Lữ quán nầy được mở với mục đích gì? Và làm sao dì chú sống được nếu không tiếp khách?
- Dì đã nói rồi, chúng ta có khách hàng mà! (Giọng dì nóng nảy) Nhiều bữa, quầy rượu chật khách...
- Hôm qua, bác phu xe nói với cháu là những người tự trọng không hề ghé lại đây. Họ sợ!
Mary gằn từng tiếng.
Dì Patience tái mặt, mắt dì lộ vẻ hốt hoảng, dì nuốt nước bọt, thì thào:
- Chú Joss nóng như lửa, cháu thấy đó, chú không muốn ai xen vô chuyện riêng.
- Nhưng thưa dì, ai dòm ngó chi công việc của một ông chủ quán lương thiện? Dù cho chú nóng tính, đâu đến nỗi người ta phải chạy trốn? Đây không phải là lý do chính đáng.
Dì không cãi được. Mary tìm cách khác khơi chuyện:
- Tại sao dì đến đây? Mẹ con vẫn ngỡ là dì ở Bodmin...
- Dì gặp chú ở Bodmin nhưng không ở đó. Chú mua Lữ quán nầy của ông Bassat. Quán bỏ trống nhiều năm về trước, chú con muốn ở đây cho tới già, tới chết. Hồi xưa, ổng đi đây đó dữ lắm. Qua tận Mỹ Châu cơ.
- Chú chọn nơi hoang vu nầy để dưỡng già, kể cũng...lạ.
- Đây là nơi sinh trưởng của chú đấy chớ, cách đây vài dặm thôi. Em trai chú, thằng Jean vẫn ở trong căn nhà tổ phụ. Lâu lâu, nó có đến đây, nhưng...chú Joss không ưa em Jean của chú.
- Ông Bassat có đến đây không, thưa dì?
- Không.
- Sao vậy dì?
- Có sự hiểu lầm. Chú mua ngôi nhà nầy qua sự trung gian của người bạn. Ông Bassat chỉ biết chủ mới là chú khi chú dọn về đây. Ông ấy không bằng lòng.
- Can gì đến ông ấy? Bán thì người ta mua chứ?
- Xưa kia lúc còn ở Trewartha, nghĩa là lúc trẻ, chú con nổi tiếng hung tợn. Không phải lỗi ông, dòng họ Merlyn toàn man rợ thế cả. Thằng Jean còn tệ hơn chú nhiều. Nhưng ông Bassat nghe lời thiên hạ thêm thắt nên ghét chú con. Ông tức giận khi biết chú con mua Lữ quán của ông. Chỉ có thế thôi, con ạ!
Dì tựa lưng vào ghế, có vẻ mệt nhọc vì bị chất vấn. Mắt bà như van lơn cháu đừng cật vấn chi thêm. Nhưng Mary lạnh lùng tìm hiểu:
- Dì ơi! Dì hãy nói thật cho cháu biết, hãy nhìn cháu đây: căn phòng bí mật ở đầu hành lang có liên lạc gì với những xe cộ dừng lại ban đêm không?
Trễ quá rồi: Mary chợt hối nhưng đã muộn. Dì nàng xanh ngắt, môi run rẩy, mắt lạc thần, bà đưa hai tay che cổ, sợ hãi tột cùng. Mary quì xuống cạnh dì, tay quàng lấy cổ dì, ôm chặt bà và hôn lên tóc bà. Nàng run rẩy:
- Dì tha lỗi cho con? Con vụng về và quá tò mò. Con xấu hổ lắm, xin dì quên những gì con vừa hỏi.
Dì Patience im lặng, tay ôm lấy mặt. Mary vuốt ve và hôn tay dì. Rồi bà bỏ tay che mặt ra, mắt bớt vẻ kinh hoàng, bà nắm tay cháu, thều thào:
- Mary, di không che dấu cháu, nhưng sự thật có nhiều điều dì cũng không biết hết... Nhưng vì cháu là cháu dì, con của người chị yêu quí, dì phải báo trước cho cháu biết...
Bà nhìn nhớn nhác như sợ Joss hiện ra bất ngờ siết cổ mình:
- Có những điều xảy ra tại đây mà dì không bao giờ dám nghĩ đến hay nói đến. Những chuyện đáng sợ: chú Joss liên lạc với nhiều người kỳ lạ và lối mua bán cũng rất lạ. Có đêm, họ đến đây. Từ cửa sổ phòng con trên cổng chính con có thể nghe họ gõ cửa. Chú con sẽ mở cửa và đưa họ đi dọc theo hành lang đến căn phòng bí mật. Họ trò chuyện rất lâu và rút lui trước khi trời sáng. Mary! Khi họ đến, con nhớ cứ nằm yên, lấy gối bịt tai lại. Nếu con hỏi đến chuyện họ, con biết được một nửa câu chuyện của họ, tóc con sẽ bạc như dì đây. Con sẽ không rão lệ mỗi đêm và run giọng khi cất tiếng. Tuổi trẻ và sự vô tư của con sẽ biến mất như dì vậy. Đừng quên lời dì...
Dì đứng lên xô ghế ra. Mary nghe tiếng chân dì lên thang một cách uể oải, mệt nhọc và dì nằm lì suốt buổi trong phòng.
Mary ngồi bên cạnh chiếc ghế không. Xuyên qua khung cửa kính, ánh mặt trời tắt sau ngọn đồi xa nhất và mầu xám của trời đông lại bao phủ khắp Lữ quán Giao Mai.
BẠN ĐANG ĐỌC
Truyện Ma Kinh Dị
HorrorNhững truyện ma kinh dị ở nhiều nơi nhiều tác giả được tổng hợp