117-118

968 5 0
                                    

THẠCH LẶC ĐỌC HÁN THƯ

Năm thứ 2 đời Tấn Nguyên Đế (tức 318 công nguyên), quốc vương nước Hán của tộc Hung Nô là Lưu Thông bị bệnh mất, nội bộ nước Hán bị phân liệt. Cháu Lưu Thông là Lưu Diệu kế thừa ngôi quốc vương. Ông thấy việc dùng danh nghĩa triều Hán cũng không đánh lừa được dân, nên năm 319 liền đổi tên quốc hiệu là Triệu. Đại tướng nước Hán là Thạch Lặc, trong cuộc chiến tranh chống Tấn đã mở rộng được binh lực, nắm trong tay 1 đội quân lớn, không chịu đứng dưới Lưu Diệu, cũng tự xưng là Triệu Vương. Thạch Lặc là người tộc Kiệt, đời ông cha là đầu mục nhỏ trong bộ lạc Kiệt. Thời trai trẻ, vùng Tinh Châu có nạn đói, Thạch Lặc lưu lạc, từng làm nô lệ, làm thuê cho các nhà hào phú. Một lần, Thạch Lặc bị loạn binh bắt, nhốt trong xe tù. May nhờ lúc đó có 1 đàn hươu chạy qua, binh lĩnh lũ lượt rượt đuổi hươu nên Thạch Lặc thừa cơ trốn thoát.

Thạch Lặc trải qua mọi nỗi khổ, thấy tiền đồ mờ mịt, liền chiêu tập 1 toán nông dân lưu tán, tổ chức thành một đội quân dũng mãnh. Sau khi Lưu Uyên khởi binh, Thạch Lặc đi theo và trở thành 1 đại tướng của Hán. Trình độ văn hóa của người Kiệt thấp hơn người Hung Nô. Từ nhỏ, Thạch Lặc không được giáo dục theo văn hóa Hán như Lưu Uyên, bản thân không biết chữ. Sau khi làm đại tướng, ông ta nhận thấy là muốn làm nên sự nghiệp lớn thì không thể chỉ dựa vào vũ lực. Ông ta nhờ 1 học giả người Hán là Trương Tân giúp vạch ra nhiều biện pháp chính trị. Ông còn lưu giữ nhiều người nghèo khổ, có học thuộc dân tộc Hán, tổ chức thành 1 "quân tử doanh" (doanh trại của những người quân tử). Do Thạch Lặc anh dũng thiện chiến, lại được nhiều mưu sĩ như Trương Tân giúp bày mưu lập kế, nên thế lực ngày càng lớn mạnh. Đến năm 328, Thạch Lặc tiêu diệt được Lưu Diệu. Hai năm sau (330), Thạch Lặc tự xưng hoàng đế ở Tương Quốc, vẫn lấy quốc hiệu là Triệu. Lịch sử gọi nước Triệu của Lưu Diệu là "Tiền Triệu" và nước Triệu do Thạch Lặc lập nên là "Hậu Triệu".

Bản thân Thạch Lặc không có văn hóa nhưng lại hết sức coi trọng các bậc thức giả. Sau khi lên ngôi hoàng đế, Thạch Lặc hạ lệnh cho cấp dưới, mỗi khi bắt được 1 người có học thì không được phép giết mà phải giải về Tương Quốc để ông xử lý. Nghe Trương Tân, ông cho mở trường học, yêu cầu con em và các tướng dưới quyền đến trường học tập. Ông còn lập ra chế độ tiến cử và chế độ thi tuyển. Phàm những người do các địa phương tiến cử lên, qua bình xét thấy hợp cách, đều được tuyển dụng làm quan. Thạch Lặc nghiêm cấm cấp dưới nói tới chữ "Hồ", "Kiệt", nhưng để phù dụ kẻ sĩ người Hán, đôi khi ông cũng bỏ qua không trị tội khi họ lỡ dùng theo thói quen. Một lần, có 1 người Hán là Phàn Đản được bổ dụng làm quan. Khi Phàn Đản vào cung triều kiến, trên mình, áo quần rất rách rưới. Thạch Lặc ngạc nhiên hỏi: "Khanh sao lại nghèo khổ tới mức này?"

Phàn Đản quên mất lệnh cấm, liền trả lời: "Gia đình thần vừa gặp một lũ giặc Kiệt, chúng cướp bóc sạch sành sanh, đến một bộ quần áo cho ra hồn cũng còn nữa".

Thạch Lặc thấy anh ta gặp rủi ro, liền an ủi: "Bọn giặc Kiệt cướp bóc bừa bãi như thế thật là bậy. Ta sẽ thay chúng để đền cho khanh".

Phàn Đản chợt nhớ ra, thấy mình đã xúc phạm tới hoàng đế thì sợ hãi run lẩy bẩy, cuống quýt dập đầu xin chịu tội. Thạch Lặc cười nói: "Lệnh cấm đó của ta là để đối phó với dân thường. Còn đối với những người có học như khanh, ta không trách". Nói xong, sai người đền trả Phàn Đản 1 số quần áo, tiền bạc, còn thưởng cho 1 cỗ xe, 1 con ngựa.

LỊCH SỬ TRUNG QUỐC 5000 NĂMNơi câu chuyện tồn tại. Hãy khám phá bây giờ